Thứ 6 ngày 08 tháng 02 năm 2019Lượt xem: 14581
Chảy máu tiểu não ... nguyên nhân do Huyết khối tĩnh mạch não.
Chảy máu não là tình trạng vỡ Động mạch não? Tuy nhiên, ... cần chú ý đến tổn thương của Tĩnh mạch não?
1. Ca lâm sàng
- Bệnh nhân nam 61 tuổi, địa chỉ ở An Lão, Hải Phòng. Tiền sử: tai biến mạch máu não 17 năm trước, di chứng liệt nửa người (T) hoàn toàn; THA 17 năm kiểm soát tốt; ĐTĐ type II 3 năm kiểm soát tốt. Bệnh nhân vào bệnh viện KA vì đột ngột đau đầu và chóng mặt; được chẩn đoán và điều trị theo hướng chảy máu não (bảo vệ tế bào não, kiểm soát huyết áp, đã có chụp cắt lớp vi tính sọ não) nhưng không đỡ ==> Chuyển viện. Bệnh nhân vào viện điều trị tại khoa Thần kinh, bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp (ngày 23/6/2016).
- Khám lâm sàng: bệnh nhân Glasgow 12 điểm, hội chứng tăng áp lực nội sọ (+), hội chứng tiểu não (+), hội chứng màng não (-), hội chứng nhiễm trùng (-), rối loạn cơ tròn; liệt mềm nửa người (T) cũ; tim phổi: bình thường.
- Xét nghiệm: công thức máu: bình thường, INR: 0,73, D-Dimer: 990 μg/L, sinh hóa máu bình thường. Soi đáy mắt: biểu hiện tăng áp lực. Siêu âm tim: bình thường. Siêu âm ổ bụng: bình thường. Chụp cắt lớp vi tính sọ não (lúc vào viện): hình ảnh chảy máu tiểu não (T), không có bất thường động mạch trên CTA. Chụp cộng hưởng từ sọ não: hình ảnh chảy máu tiểu não (T), hiệu ứng khối mạnh, đè đẩy não thất 4 gây giãn não thất phía trên; có huyết khối xoang ngang và xoang sigma (P), hình ảnh nghĩ đến nhồi máu não cũ bao trong bên (P).
Hình ảnh chụp cộng hưởng từ sọ não.
- Chẩn đoán xác định: Chảy máu tiểu não (T) do huyết khối tĩnh mạch não tại xoang ngang và xoang Sigma (P)/ Tăng huyết áp, Đái tháo đường type II, Tai biến mạch máu não cũ.
- Điều trị theo hướng huyết khối tĩnh mạch não:
+ Phẫu thuật giảm áp lực nội sọ.
+ Chống đông: Lovenox 100mg/ngày (chia 50mg/12h, BN 50kg) + Sau 10 ngày dùng Sintrom 1/4 viên/ngày (duy trì INR = 2).
+ Chống phù não: Acetazolamid 500mg/ngày.
Sau 21 ngày điều trị, các triệu chứng lâm sàng cải thiện rõ rệt: tỉnh, không đau đầu, hội chứng tăng áp lực nội sọ (-), không liệt vận động, không rối loạn cơ tròn ==> Ra viện.
2. Bàn luận:
- Theo báo cáo của Jernej Avsenik và cộng sự năm 2016 ở bệnh nhân huyết khối tĩnh mạch não (HKTMN): đau đầu chiếm 93%, phù gai thị chiếm 78%, tồn thương thần kinh khu trú chiếm 62%, nôn (62%), buồn ngủ hoặc sững sờ (46%), nhầm lẫn ( 38%), rối loạn thị lực (23%), cơn động kinh (15%),…[4]. Còn theo báo cáo Susanna M. Zuurbier and Jonathan M. Coutinho 2016 [5]: động kinh chiếm tới khoảng 40% bệnh nhân cao hơn nhiều so với đột quỵ động mạch. Yếu tố nguy cơ của bệnh nhân bao gồm: uống thuốc tránh thai (66,7% bệnh nhân nữ), mang thai, tiền sử nạo phá thai gần đây (44,4% bệnh nhân nữ), ...
- Độ nhạy của D-Dimer ở những bệnh nhân HKTMN là 94% (theo Imanda M.E. Alons là 97,8%), còn trong số những bệnh nhân bị đau đầu mãn tính độ nhạy thấp hơn đáng kể (83%). Tuy nhiên, ở những bệnh nhân bất kỳ thì định lượng D-Dimer có ý nghĩa định hướng, ít có giá trị trong chẩn đoán HKTMN. Các nghiên cứu trước đây ghi nhận D-Dimer >500 μg/L có độ nhạy cao nhưng đặc hiệu không cao, và thường dùng để loại trừ HKTMN ở những bệnh nhân nguy cơ thấp. Tuy nhiên, một nghiên cứu năm 2005 ghi nhận 4% bệnh nhân HKTMN và 16% bệnh nhân HKTMNS với đau đầu đơn thuần có D-Dimer <500 μg/L, và như vậy D-Dimer không cao cũng không loại trừ chẩn đoán, nhất là ở các bệnh nhân chỉ có nhức đầu đơn thuần. Trên lâm sàng, nếu rất nghi ngờ HKTMNS mà D-Dimer không cao thì có thể làm lại test này. Nên tầm soát tình trạng tăng đông ở bệnh nhân có nguy cơ tăng đông (I,C): dùng thuốc ngừa thai, tình trạng viêm nhiễm,... các xét nghiệm này gồm: protein S, protein C, anti thrombin III, antiphospholipid, đột biến prothrombin G20210A, yếu tố V Leiden, …
- Theo Ravi Uniyal và cộng sự (2016) [6]: trước 1 bệnh nhân đau đầu cấp tính nặng thì lựa chọn đầu tiên là chụp cắt lớp vi tính sọ não (CT), trên film CT dấu hiệu gợi ý cho bác sĩ nghĩ đến chụp cắt lớp vi tính có dựng hệ tĩnh mạch não (CTV) là dấu hiệu delta đặc (huyết khối trong khoang màng cứng) tuy nhiên dấu hiệu này không phải là đặc hiệu cho CVT vì chỉ có gần 1/3 trường hợp có dấu hiệu này. Đồng thời cần đánh giá cả hệ động mạch não, nhất là trong trường hợp có dấu hiệu Delta đặc kèm chảy máu khoang dưới nhện và không có tổn thương nhu mô để loại trừ dị dạng động mạch. Theo Susanna M. Zuurbier and Jonathan M. Coutinho 2016: chụp CTV, chụp cộng hưởng từ sọ não có dựng hệ tĩnh mạch não (MRV), chụp mạch máu não số hóa xóa nền (DSA) sẽ giúp chẩn đoán HKTMN. Trong đó DSA là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán tuy nhiên đây là thủ thuật xâm lấn, chỉ được thực hiện khi nghi ngờ sau khi chụp CTV hoặc MRV. CTV thấy dấu hiệu delta trống: thấy rõ ở phần sau xoang dọc trên, gồm viền tăng quang của thành xoang tĩnh mạch, bao quanh vùng giảm đậm độ của huyết khối trong xoang. MRV thường xung TOF 2D được dùng trong chẩn đoán HKTMN vì có độ nhạy cao hơn với các dòng lưu lượng thấp so với TOF 3D; MRI có thuốc cản quang cho phép cải thiện hình ảnh cấu trúc tĩnh mạch. Độ nhạy của CTV trong phát hiện các tổn thương nhu mô và huyết khối tĩnh mạch vỏ não là kém hơn so MRV [4].
- Hướng điều trị: theo W.Alvin McElveen 10/2016 đăng trên Medscape, Susanna M. Zuurbier and Jonathan M. Coutinho 2016 và quan điểm này cũng được thống nhất đăng trên Tạp chí Thần kinh học của Châu Âu năm 2012 [2]:
+ Chống đông: Mục đích dùng chống đông: ngăn ngừa cục huyết khối tiến triển, tạo thuận lợi cho việc tái thông, phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi. Điều trị kháng đông Heparin không phân đoạn hoặc trọng lượng phân tử thấp với liều đầy đủ, duy trì tiếp theo bằng kháng vitamin K, bất kể có xuất huyết não hay không (khuyến cáo nhóm IIa, mức chứng cứ B). Thuốc và liều dùng: + Heparin: bolus tĩnh mạch liều 3000 – 5000 UI, tiếp tục với liều 1000 – 1200 UI/ mỗi giờ kèm theo tăng 100 – 200 UI mỗi 6 – 8 giờ cho tới khi aPTT tăng gấp đôi chứng. + Heparin trọng lượng phân tử thấp với liều 1mg/kg/12 giờ. + Dùng cho tới khi tình trạng lâm sàng ổn định, thường 10 – 14 ngày, gối đầu kháng vitamin K với INR mục tiêu từ 2 – 3. + Chống đông heparin trọng lượng phân tử thấp liều đầy đủ là hợp lý, theo sau là thuốc kháng vitamin K, khi có sự hiện diện của xuất huyết não cũng không có chống chỉ định. + Ở bệnh nhân HKTMN thứ phát (liên quan với yếu tố nguy cơ thoáng qua), điều trị kháng vitamin K với INR mục tiêu từ 2 – 3 có thể liên tục từ 3 – 6 tháng 2. Ở bệnh nhân HKTMN không có yếu tố thúc đẩy, điều trị kháng vitamin K với INR mục tiêu từ 2 – 3 có thể liên tục từ 6 – 12 tháng.
+ Điều trị tăng áp lực nội sọ: khuyến cáo dùng Acetazolamide, không nên chọc DNT vì sẽ phải ngừng các thuốc chống đông. Chọc DNT chỉ đc tiến hành trong trường hợp khẩn cấp như bệnh nhân bị mất thị lực cấp tính. Steroid: không khuyến cáo sử dụng ở bệnh nhân HKTMN với mục đích giảm phù não. Phẫu thuật giảm áp: được thực hiện trên những bệnh nhân tăng áp lực nội sọ có nguy cơ thoát vị não. Điều trị giãn não thất (não úng thủy): dẫn lưu não thất ổ bụng hoặc dẫn lưu não thất ra ngoài.
+ Can thiệp nội mạch và t-PA: chưa có nghiên cứu kiểm soát đã đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phương pháp này (hiện nay thử nghiệm TO-ACT đánh giá hiệu quả điều trị của can thiệp nội mạch đang được tiến hành).
- Theo dõi lâu dài và kiểm soát tình trạng tái phát huyết khối tĩnh mạch nội sọ:
+ Tỉ lệ tái phát: bệnh nhân có yếu tố tăng đông hoặc bệnh lý khác như ung thư được xem như yếu tố nguy cơ cao. Nhìn chung tỉ lệ tái phát hàng năm (không phân theo yếu tố nguy cơ) là 6,5%. Trong đó huyết khối tĩnh mạch sâu chiếm 3,4%. Tái phát chủ yếu trong năm đầu tiên
+ Phòng ngừa thứ phát huyết khối tĩnh mạch nội sọ và huyết khối tĩnh mạch sâu: Ở bệnh nhân có 1 yếu tố nguy cơ thoáng qua (yếu tố khởi phát huyết khối): duy trì kháng vitamin K 3-6 tháng với INR 2-3 (IIb,C). Ở bệnh nhân huyết khối tĩnh mạch nội sọ không có yếu tố khởi phát: duy trì kháng vitamin K 6-12 tháng với INR 2-3 (IIb,C). Ở bệnh nhân tái phát huyết khối tĩnh mạch não, huyết khối tĩnh mạch sâu sau huyết khối tĩnh mạch não hoặc huyết khối lần đầu nhưng có tình trạng tăng đông: điều trị kháng đông duy trì INR 2-3 không giới hạn thời gian (IIb,C) [3].
+ Các xét nghiệm có thể xác định yếu tố nguy cơ tái phát: D-Dimer tăng bất thường 1 tháng sau khi ngưng kháng đông thì tỉ lệ tái phát thuyên tắc tĩnh mạch là 15% so với 2,9% không có tăng D-Dimer. Sau khi dùng kháng đông trở lại thì D-Dimer sẽ giảm.
3. Khuyến nghị
- Huyết khối tĩnh mạch não nên được đặt ra đối với những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ; có biểu hiện lâm sàng của hội chứng tăng áp lực nội sọ: đau đầu, nôn, cơn động kinh, … kèm theo các dấu hiệu thần kinh khu trú (tùy thuộc vào vị trí tổn thương: chóng mặt,...) và D-Dimer dương tính(>500 μg/L) (có ý nghĩa định hướng chẩn đoán).
- Trên thực tế: bệnh nhân vào viện thường được khảo sát chụp cắt lớp vi tính đơn dãy sọ não để loại trừ đột quỵ não; vị trí tổn thương trên film chụp không phù hợp sự phân bố động mạch não chi phối nhưng phù hợp vị trí phân bố tĩnh mạch não thì nên đặt dấu hỏi nghi ngờ huyết khối tĩnh mạch não khi kết hợp yếu tố nguy cơ, lâm sàng và định lượng D-Dimer. Khi đó cộng hưởng từ sọ não có dựng thì tĩnh mạch nên được ưu tiên để chẩn đoán xác định.
7. Received: 4 August 2016 / Accepted: 27 September 2016 Belgian Neurological Society 2016.
Tin xem nhiều nhất
-
Ngày 09/02/2018
ĐIỆN CƠ là gì ...
-
Ngày 13/02/2018
Điều trị Co thắt mi mắt (Blepharospasm)?
-
Ngày 01/03/2018
Điều trị co cứng cơ sau Đột quỵ não.
-
Ngày 26/05/2018
Điều trị Co thắt nửa mặt (Hemifacial spasm)?
-
Ngày 05/04/2020
Liệt dây thần kinh số VII.
-
Ngày 05/10/2021
Chẩn đoán định khu tổn thương tủy sống.